Chảy máu âm đạo (VB) thường gặp ở phụ nữ mắc bệnh ác tính phụ khoa (GYN). Xạ trị (RT) là phương pháp thường quy được sử dụng để điều trị dứt điểm bệnh ung thư phụ khoa và giảm nhẹ chảy máu. Bức xạ liều cao cục bộ có thể cầm máu tốt hơn các phương pháp thông thường. Mới đây, các nhà khoa học kiểm tra ảnh hưởng của kích thước phân số RT đối với VB thông qua phân tích hồi cứu bệnh nhân xạ trị giảm phân đoạn (HFRT) so với xạ trị phân đoạn thông thường (CFRT) để kiểm soát chảy máu thứ phát do khối u ác tính GYN gây ra.
Chảy máu là di chứng phổ biến do các khối u ác tính phụ khoa (GYN) như ung thư cổ tử cung và ung thư nội mạc tử cung gây ra, trong nhiều trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thiếu máu và đe dọa đến tính mạng bệnh nhân. Bệnh lý đằng sau sự chảy máu liên quan đến khối u ban đầu được cho là dạng thứ phát từ khả năng vỡ khối u. Sau đó, khi khối u ăn mòn thành mạch máu, hiện tượng chảy máu sẽ chuyển nặng hơn. Chảy máu âm đạo (VB) là một triệu chứng phổ biến đối với phụ nữ mới được chẩn đoán mắc bệnh ác tính GYN. Xạ trị hướng vào khối u đã được kiểm chứng là có hiệu quả trong việc cầm máu ở những bệnh nhân này. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu so sánh hồi cứu hiệu quả của RT giảm phân đoạn (HFRT, > 2,0 Gy/phân đoạn) với RT phân đoạn thông thường (CFRT, 1,8–2,0 Gy/fx) trong việc cầm máu ở phụ nữ bị chảy máu thứ phát do khối u ác tính. Kết quả của nghiên cứu sẽ cung cấp dữ liệu tốt hơn về mối quan hệ giữa liều RT và thời gian ngừng chảy máu, điều này giúp các bác sĩ cân bằng giữa yêu cầu cấp tính về làm ngừng chảy máu với yêu cầu liều RT tích lũy khi chữa bệnh.
Công bố kết quả nghiên cứu
Phân tích hồi cứu được thực hiện trên những phụ nữ được xạ trị (EBRT) đối với VB liên tục liên quan đến khối u ác tính phụ khoa tại Đại học Alabama ở Birmingham (UAB) từ năm 2012 đến năm 2020. Các khối u ác tính phụ khoa được nghiên cứu là ở cổ tử cung, nội mạc tử cung, âm đạo hoặc âm hộ. Tất cả các biến được thu thập từ hồ sơ y tế điện tử (EMR) của UAB. Thông tin nhân khẩu học cơ bản như tuổi tác, chủng tộc, tình trạng mãn kinh cũng được đưa vào dữ liệu kèm theo thông tin về ung thư bao gồm vị trí khối u nguyên phát (âm hộ, âm đạo, cổ tử cung hoặc tử cung), mô học khối u, liệu pháp điều trị toàn thân trước đó, xạ trị tại chỗ trước đó và phẫu thuật vùng chậu trước đó. Ngày RT, tổng liều (Gy), tổng số phân số được phân phối, liều trên mỗi phân số, liều hiệu quả về mặt sinh học (lần lượt là α/β = 10 và α/β = 2 hoặc BED10 và BED2), tăng cường vùng chậu, xạ trị áp sát tiếp theo và ý định điều trị (dứt điểm so với giảm nhẹ) cũng được ghi nhận tương ứng. Bệnh nhân bị chảy máu ngắt quãng được loại trừ khỏi dữ liệu, cũng như bệnh nhân đã ngừng chảy máu trước khi bắt đầu RT, chỉ để lại những bệnh nhân bị chảy máu liên tục do bệnh ác tính GYN. Bức xạ được sử dụng là HFRT (> 2,0 Gy/fx) hoặc CFRT (1,8–2,0 Gy/fx) dựa trên tổng liều trên mỗi phân đoạn trong quá trình điều trị. Nhóm giảm phân đoạn sau đó được phân tầng phụ thành 2,0–2,5 Gy/phần và > 2,5 Gy/phần để nghiên cứu thêm về tác động của việc tăng liều trên mỗi phần đối với việc cầm máu. Các đặc điểm cơ bản giữa các nhóm được so sánh thông qua phép thử chính xác của Fisher và phép thử Mann–Whitney tương ứng cho các biến phân đoạn và biến liên tục. Thời gian ngừng chảy máu được đánh giá thông qua Kaplan–Meier và bài test log-rank. Các mô hình rủi ro theo tỷ lệ Cox được sử dụng để xác định các yếu tố liên quan đến việc cầm máu. Các yếu tố có p < 0,2 trên phân tích đơn biến sau đó được đưa vào mô hình theo tỷ lệ Cox đa biến cuối cùng. Hồi quy tuyến tính với tương quan Pearson được thực hiện để đánh giá mối quan hệ giữa liều lượng trên mỗi phần và thời gian ngừng chảy máu.
Các loại bênh ung thư liên quan đến phụ khoa của phụ nữ
Kết quả đánh giá cho thấy, ở cả bệnh nhân nhóm CFRT và HFRT, RT đều làm ngừng chảy máu. Thời gian trung bình để cầm máu là 5 ngày đối với những người dùng HFRT và 16 ngày đối với những người dùng CFRT. Tác dụng đáp ứng rõ nhất đối với nhóm liều cao nhất (> 2,5 Gy/phần). Trên thực tế, tất cả bệnh nhân dùng hơn 2,5 Gy/phần đều ngừng chảy máu trong vòng 4 ngày kể từ khi bắt đầu xạ trị và thời gian trung bình để ngừng chảy máu là 1 ngày. Nhìn chung, thời gian trung bình để cầm máu giảm khi tăng liều trên mỗi phần với các giá trị trung bình là 16 ngày, 6 ngày và 1 ngày đối với các giá trị liều trên mỗi phần là ≤ 2,0 Gy, 2,1–2,5 Gy và > 2,5 Gy.
Khi HFRT được chia nhỏ hơn nữa theo lượng liều phân phối trên mỗi phần, dữ liệu tiếp tục chứng minh rằng việc tăng liều trên mỗi phần giảm thời gian ngừng chảy máu. Nhìn chung, trong nhóm bệnh nhân xạ trị, chế độ xạ trị giảm phân đoạn nhiều hơn dẫn đến ngừng chảy máu nhanh hơn. Kết quả đánh giá mang lại lợi ích trong việc quản lý bệnh nhân ung thư cổ tử cung mới được chẩn đoán, có thể chữa được tình trạng xuất huyết nặng. Nếu một bệnh nhân có biểu hiện chảy máu nghiêm trọng tại thời điểm nhập viện, sẽ đảm bảo việc làm ngừng chảy máu khi RT với một vài phân đoạn HFRT trước khi chuyển sang một liệu trình điều trị bằng RT phân đoạn rõ ràng thông thường. Ngoài ra, những bệnh nhân bị chảy máu ít nghiêm trọng hơn có thể được xử trí thích hợp bằng CFRT với khả năng ngừng chảy máu dự kiến trong khoảng 2 tuần kể từ khi bắt đầu RT. Dữ liệu cũng cho thấy việc ngừng chảy máu nhanh hơn sẽ hạn chế hoặc ngăn ngừa thiếu máu và từ đó cải thiện kết quả điều trị ung thư.
Từ khóa: Xạ trị; cầm máu; ung thư; phụ khoa;
– CMD&DND –