Một nghiên cứu mới của Bệnh viện Brigham and Women’s cho thấy chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) có thể tiết lộ tình trạng viêm tiềm ẩn ở những bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng (MS) đang được điều trị bằng các phương pháp điều trị hiệu quả cao. Những phát hiện này đã được công bố trên Tạp chí Y học hạt nhân lâm sang (Clinical Nuclear Medicine).
Tác giả chính của nghiên cứu PGS.BS Tarun Singhal về Thần kinh học, cho biết: “Một trong những thách thức đối với các bác sĩ lâm sàng điều trị bệnh nhân MS là sau một khoảng thời gian nhất định, bệnh nhân chuyển biến bệnh tồi tệ hơn trong khi kết quả MRI của họ không thay đổi”. Trưởng khoa Thần kinh của Brigham – Giám đốc Chương trình Hình ảnh PET tại Trung tâm Thần kinh Ann Romney, cộng tác với Trung tâm Bệnh đa xơ cứng Brigham và Trung tâm Ann Romney, Singhal cho biết: “Đây là phương pháp mới có khả năng ứng dụng cao cho lĩnh vực, nghiên cứu và hy vọng sẽ được sử dụng trong lâm sang.”.
Nghiên cứu bắt đầu khi Singhal nhận thấy những bệnh nhân đang được điều trị bằng các phương pháp điều trị MS hiệu quả cao hiện có gặp phải các triệu chứng tồi tệ hơn. Nhóm nghiên cứu đã làm việc trong 8 năm qua để phát triển phương pháp tiếp cận các tế bào hình ảnh gọi là microglia. Microglia là các tế bào miễn dịch trong não được cho là có vai trò trong sự tiến triển của bệnh MS nhưng không thể nhìn thấy bằng MRI thông thường. Nhóm nghiên cứu đã phát triển một kỹ thuật gọi là chụp ảnh PET F18 PBR 06. Nó sử dụng kỹ thuật tiêm chất đánh dấu để liên kết với các tế bào microglia. Rohit Bakshi, thuộc Khoa Thần kinh học và là đồng tác giả của nghiên cứu, giải thích rằng hoạt động của vi mô tăng lên có nghĩa là chất xám trong não bị teo nhiều hơn. Điều này có thể ảnh hưởng đến nhận thức vận động, kỹ năng vận động và các khía cạnh khác trong cuộc sống của bệnh nhân.
So sánh nhóm về điểm lnGALP trong CoGM và WM, CoT và thể tích não bình thường hóa ở MS so với HC (A–D); ở bệnh nhân MS dùng H-DMT (HT) so với bệnh nhân MS có hiệu quả thấp hoặc không có DMT (LT) và so với HC (E–H); ở bệnh nhân tiến triển so với RMS trong nhóm HT (I–L) (Nguồn: Y học hạt nhân lâm sàng (2024). DOI: 10.1097/RLU.0000000000005201).
Nghiên cứu mô tả thuật ngữ viêm “âm ỉ”, giống như ngọn lửa âm ỉ có thể cháy chậm mà không có khói hoặc hình thành lên ngọn lửa một cách rõ rang. Tình trạng viêm âm ỉ có thể kéo dài ở bệnh nhân mắc MS, tăng sự tiến triển và các triệu chứng của bệnh, ngay cả khi không thể đánh giá được trên MRI. Nghiên cứu thực hiện PET trên 22 người bị MS và 8 người đối chứng khỏe mạnh. Các nhà nghiên cứu đã đo tải hoạt động thần kinh đệm trên bản quét PET, biện pháp mới được phát triển trong phòng thí nghiệm của Singhal, nơi các thành viên phòng thí nghiệm xem xét mức độ viêm âm ỉ từ microglia ở bệnh nhân MS. Họ so sánh những lần quét đó với mức độ khuyết tật và mệt mỏi của bệnh nhân và không chỉ phát hiện ra rằng PET có thể cho thấy tình trạng viêm tiềm ẩn do microglia gây ra, mà tổn thương não của bệnh nhân cũng tương quan với tình trạng khuyết tật và mức độ mệt mỏi mà họ đang gặp phải.
Các nhà nghiên cứu cũng có thể phân loại bệnh nhân MS tốt hơn giữa các phương pháp điều trị hiệu quả cao và hiệu quả thấp. Những người được điều trị bằng phương pháp điều trị hiệu quả thấp có nhiều điểm bất thường hơn trên bản chụp PET, cho thấy hoạt động tế bào vi mô nhiều hơn. Những người sử dụng phương pháp điều trị hiệu quả cao có mức độ bất thường về PET thấp hơn so với những người không điều trị hoặc điều trị hiệu quả thấp, nhưng vẫn có sự gia tăng bất thường về kích hoạt vi mô so với người khỏe mạnh, cho thấy rằng trong khi các phương pháp điều trị hiệu quả cao giúp giảm viêm thần kinh, vẫn có tình trạng viêm mặc dù đã điều trị, điều này có thể khiến tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn và tiến triển không phụ thuộc vào hoạt động tái phát (PIRA) ở những bệnh nhân MS này.
Các liệu pháp điều trị dựa trên nghiên cứu hiệu quả, chắc chắn cải thiện cuộc sống của bệnh nhân MS. Một hạn chế của nghiên cứu là dữ liệu đánh giá chưa lớn. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng chụp PET tốn kém và khiến bệnh nhân phải tiếp xúc với một mức độ bức xạ nhất định, trong khi MRI thì không. Bức xạ có thể giảm do thời gian bán hủy dài và yêu cầu sử dụng liều lượng thấp hơn của chất đánh dấu F18 PBR06. Chất đánh dấu cũng tạo ra các đặc tính hình ảnh tốt hơn so với các chất đánh dấu được sử dụng trước đây với thời gian bán hủy ngắn hơn. Mặc dù có những hạn chế, nghiên cứu này đã làm sáng tỏ lợi ích của PET, đặc biệt cho mục đích tìm kiếm khả năng kích hoạt vi mô.
Nghiên cứu cho chúng ta biết điều gì đó mới mẻ về căn bệnh MS và có thể cho chúng ta manh mối quan trọng về nguyên nhân thúc đẩy sự tiến triển của bệnh ở bệnh nhân. Trước khi kỹ thuật này có thể được sử dụng thường xuyên trong môi trường lâm sàng, nó phải được xác nhận trên cỡ mẫu lớn hơn. Các chất đánh dấu PET có thời gian bán hủy dài hơn khác đã được FDA chấp thuận cho sử dụng lâm sàng, ví dụ, chất đánh dấu PET amyloid để nghiên cứu bệnh Alzheimer. Nếu được phê duyệt, [F-18]PBR06 cũng có thể được sử dụng như một công cụ để cá nhân hóa và dự đoán quá trình điều trị của bệnh nhân mắc bệnh MS và các bệnh về não khác. Tuy nhiên, ngay cả trước khi được phê duyệt, [F-18]PBR06 vẫn có thể được sử dụng để giúp thúc đẩy quá trình phát triển thuốc và thực hiện các thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm. Phương pháp mới này có hiệu quả và có mối tương quan chặt chẽ với các biện pháp lâm sàng đã đánh giá trước đây. Điều đó có nghĩa là cách tiếp cận này phù hợp về mặt lâm sàng.
Từ khóa: PET; bệnh xơ cứng; thần kinh;
– CMD&DND –