Trang chủ » Đặc tính vật lý và lâm sàng của Xạ trị đối với bệnh ung thư da

Đặc tính vật lý và lâm sàng của Xạ trị đối với bệnh ung thư da

Ung thư, u hắc tố ác tính và sacôm da là đại diện cho nhóm bệnh ác tính phổ biến nhất hiện nay ở người. Phương pháp điều trị chính đối với hầu hết các bệnh ung thư da và khối u mô dưới da là phẫu thuật, bao gồm việc loại bỏ hoàn toàn một tổn thương ung thư với một phần mô lành thích hợp. Xạ trị đóng vai trò bổ trợ cho quy trình phẫu thuật và trở thành yếu tố không thể thiếu trong việc đảm bảo hiệu quả điều trị bệnh. Xạ trị đã thực sự loại bỏ hoàn toàn ung thư da nhờ các điện tử được tạo ra trong máy gia tốc tuyến tính (LINAC) hay liệu pháp xạ trị tiếp xúc HDR hoặc ​​bằng các photon năng lượng cao được sử dụng trong các kỹ thuật IMRT.

 Ung thư, u hắc tố ác tính và sacôm da gây ra các tổn thương tương đối dễ chẩn đoán cả về mặt y học và ung thư học. Chẩn đoán chủ yếu dựa trên việc kiểm tra bằng kính hiển vi đối với chất liệu mô phẫu thuật từ rìa của tổn thương lớn (sinh thiết vết mổ) hoặc từ toàn bộ tổn thương da đã được loại bỏ thông qua sinh thiết cắt bỏ. Phương pháp điều trị chính của hầu hết các bệnh ung thư da và khối u mô dưới da là phẫu thuật và xạ trị đóng vai trò bổ trợ trong quá trình này. Bên cạnh đó, xạ trị cũng có thể là phương pháp điều trị thay thế, đặc biệt là trong các trường hợp bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật, hoặc việc cắt bỏ khối u sẽ tạo hình xấu, biến dạng, gây chấn thương hoặc tàn tật.

Xạ trị đóng vai trò quan trọng trong việc “quản lý” nhiều loại ung thư, bao gồm khối u chèn ép mô mềm và ung thư da. Ngay từ đầu “khai sinh”, tức là từ cuối thế kỷ XIX, xạ trị đã trở thành phương pháp thay thế cho phẫu thuật mà liệu pháp xạ trị đầu tiên là sử dụng tia X “mềm. Đối với các khối u mô mềm của hệ thống liên kết được coi là khối u kháng bức xạ, những tiến bộ của xạ trị từ năm 70 và 80 cũng đã được ứng dụng lâm sàng và chính thức đưa vào hệ thống điều trị cho bệnh nhân.

Xạ trị ung thư da

Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản của bệnh nhân ung thư da. Phương pháp này sẽ tiến hành cắt bỏ toàn bộ khối u/thâm nhiễm khối u từ phần rìa của vùng da lành tiếp giáp vùng thâm nhiễm theo chu vi và mô dưới da. Xạ trị là giải pháp thay thế phương pháp phẫu thuật ở một số vị trí được chọn (ví dụ: đầu) và ở giai đoạn tiến triển sớm (I và II) của Ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC) hoặc Ung thư biểu mô tế bào đáy (BCC). Xạ trị cũng có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị bổ trợ sau phẫu thuật trong những trường hợp ung thư ở giai đoạn tiến triển muộn (III-IV). Trong điều trị U hắc tố ác tính (MM), xạ trị chủ yếu được sử dụng như một liệu pháp sau phẫu thuật khi có di căn đến các hạch bạch huyết và có nguy cơ tái phát tại chỗ cao. Ngoài ra, xạ trị còn được sử dụng điều trị triệt để trong một số trường hợp hiếm gặp của khối u ác tính không thể phẫu thuật của niêm mạc miệng hoặc khoang mũi, xoang và âm đạo.

Sự lây lan bề ngoài của ung thư da nguyên phát đã làm cho quy trình chiếu xạ trở nên đơn giản. Liều xạ trị tập trung vào da hoặc bề mặt thâm nhiễm, không xâm nhập vào bên trong các mô khỏe lân cận. Yêu cầu này được đáp ứng một cách lý tưởng bằng phương pháp xạ trị thông qua kỹ thuật điện tử trường. Trường mục tiêu được thiết kế chủ yếu dựa trên kết quả khám lâm sàng và đặc biệt là vị trí khu trú, kích thước và độ sâu của thâm nhiễm khối u. Các quy trình xạ hình bao gồm CT cho phép tiến hành xạ trị tuân theo quy trình điều trị được thiết kế chính xác và xác định vị trí của các cơ quan có nguy cơ (OAR), hoặc cung cấp khả năng kết hợp chùm tia bên ngoài và liệu pháp xạ trị tiếp xúc.

Kết quả xạ trị của bệnh nhân ung thư da dựa trên quan sát và đánh giá sự thuyên giảm của khối u trong quá trình chiếu xạ. Việc quan sát phản ứng da cấp tính sau bức xạ sẽ đạt đến giai đoạn tẩy tế bào chết biểu bì hợp lưu (giai đoạn III). Khi ung thư da tiến triển tại chỗ hoặc xâm nhập vào một số cấu trúc khu trú sâu (ví dụ: gân, cơ hoặc xương) và trước đó đã được phẫu thuật cắt bỏ không triệt để. Trong trường hợp như vậy, việc lập kế hoạch xạ trị phải dựa trên các hệ thống hiển thị ba chiều hiện đại về sự phân bố liều lượng có được từ chùm bức xạ photon MV.

Xạ trị bệnh nhân ung thư da đầu.

Xạ trị khối u mô dưới da

Khoảng 20 năm trước, phẫu thuật cắt bỏ khối u là thủ thuật phẫu thuật phổ biến nhất liên quan đến bệnh nhân có khối u ác tính của mô dưới da (u mô mềm, ung thư biểu mô tuyến của da và các cơ quan phụ của nó). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, liệu pháp này không đủ hiệu quả, nhiều bệnh nhân bị tái phát cục bộ đã chết do di căn đến các cơ quan khác. Kinh nghiệm lâm sàng này đã tạo ra sự thay đổi về phương pháp điều trị, xạ trị sau phẫu thuật. Phương pháp điều trị kết hợp như vậy đã mang lại hiệu quả cao (tỷ lệ kiểm soát tại chỗ khoảng 80% – 90%) và đã được khẳng định từ các dữ liệu ung thư học.

Cho đến gần đây, xạ trị được coi là phương pháp điều trị bổ trợ tiêu chuẩn sau phẫu thuật ở tất cả các bệnh nhân có khối u với mức độ ác tính mô học cao và trung bình (phân loại-G) và ở giai đoạn nặng của khối u nguyên phát. Tuy nhiên, các khối u nhỏ (có đường kính ≤ 5 cm), đặc biệt là những khối nằm trên các khối u, hiếm khi tái phát sau khi cắt bỏ, điều này cho thấy rằng trong những trường hợp như vậy, xạ trị bổ trợ có thể không cần thiết. Ngày nay, chỉ định chính cho xạ trị sau phẫu thuật là khi thiếu các hiệu ứng phẫu thuật triệt để, được phát hiện bằng cách kiểm tra hình thái học (kính hiển vi) của rìa mô bị cắt. Một cái gọi là “giường” khối u sau phẫu thuật với mô khỏe mạnh lân cận được chiếu xạ. Kích thước tiêu chuẩn là 5 – 7 cm; tuy nhiên, nhiều trung tâm ung bướu đã sử dụng rìa có chu vi rộng hơn khi khối u có đường kính lớn hơn 15 cm.

Xạ trị có thể được sử dụng trước khi tiến hành phẫu thuật

Thứ nhất, trước khi điều trị, khi một khối u vẫn còn nguyên vẹn và việc đánh giá liên ngành về bệnh được thực hiện bởi một nhóm bao gồm bác sĩ xạ trị, bác sĩ ung thư lâm sàng và bác sĩ phẫu thuật chấp nhận kế hoạch điều trị. Ngoài ra, việc quản lý có thể đảm bảo rằng xạ trị sẽ không bị trì hoãn hoặc không bị từ chối do các biến chứng phẫu thuật có thể xảy ra.

Thứ hai, trước khi phẫu thuật, có thể sử dụng liều chiếu xạ nhỏ, khi các vùng xung quanh khối u còn nguyên vẹn, các mô lân cận khối u được cung cấp oxy tốt.

Thứ ba, khối lượng chiếu xạ và số lượng khớp liên quan đến khối lượng đích có thể nhỏ hơn so với tình trạng sau phẫu thuật, và bằng cách này, khả năng chức năng của chi có thể được cải thiện. Bằng cách làm thu nhỏ khối u nhờ xạ trị, có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều trị phẫu thuật tiếp theo. Trong phần lớn các trung tâm ung bướu, liều chiếu xạ chuẩn trước khi phẫu thuật được thiết lập là 50 Gy, được dùng trong 25 liều phân đoạn, trong 5 tuần.

Từ khóa: Xạ trị; ung thư da; khối u mô dưới da;

– CMD&DND –

Cùng chủ đề

Viết một bình luận

THÔNG TIN LIÊN HỆ

Công ty TNHH thiết bị và dịch vụ khoa học AE

Trụ sở chính tại Hà Nội: Phòng 1411 tòa nhà OCT2, KĐT Xuân Phương Viglacera, phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Chi nhánh miền Nam: 154/174C Âu Dương Lân, Phường 3, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh

Chi nhánh miền Trung: Xã Lộc Ninh, Tp. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Chi nhánh Bắc Giang: Số 18, Thôn Lực, xã Tân Mỹ, Tp. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

ĐT: 0983374983, Fax: 024366667461

Email: duongcm@ae-rad.vn

Di động: 0983 374 983 (Chu Minh Dương)

LIÊN HỆ TƯ VẤN





    Total Visitors: 132481

    Today's Visitors:5

    0983 374 983