Liệu pháp xạ trị cho trẻ em và trẻ vị thành niên mắc u nguyên bào tủy hiện đã có thể không cần tiếp cận dựa theo kích thước cơ thể. Kết quả của thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn cho thấy một số trẻ có thể nhận được ít bức xạ hơn, an toàn hơn mà không hạn chế khả năng sống sót do u nguyên bào gây ra, trong khi những trẻ khác vẫn cần liều lượng tiêu chuẩn.
Mặc dù các phương pháp điều trị tiêu chuẩn có thể chữa khỏi hơn 80% trẻ em mắc bệnh u nguyên bào tủy có nguy cơ mức trung bình, nhưng bức xạ có thể gây tổn thương lâu dài cho não bộ đang phát triển của trẻ. Những tác động muộn này gây ra sự khó khăn về chức năng nói, học tập, thính giác và hormone. Trưởng nhóm nghiên cứu, Jeff Michalski, thuộc Trường Y Đại học Washington ở St. Louis cho biết mục tiêu của thử nghiệm là để xem liệu việc giảm liều phóng xạ hoặc đưa bức xạ đến một vùng não nhỏ hơn có thể “duy trì tỷ lệ sống sót lớn mà không gây ra hậu quả tiêu cực do liều lượng phóng xạ cao hay không”.
Chụp cắt lớp vi tính (CT) lập kế hoạch xạ trị cho trẻ bị u nguyên bào tủy (Nguồn: Medical Dosimetry. Spring 2013).
Theo kết quả nghiên cứu được công bố ngày 10/6/2021 trên Tạp chí Ung thư Lâm sàng, việc đưa bức xạ đến một vùng não nhỏ hơn xung quanh khối u cũng có hiệu quả như chiếu xạ đến một vùng lớn hơn. Nhưng liều phóng xạ thấp hơn không có tác dụng tốt như liều tiêu chuẩn để điều trị ung thư. Tuy nhiên, những mô hình này có nhiều sắc thái khác nhau đối với những bệnh nhân có khối u có đặc điểm di truyền nhất định. Nghiên cứu này mở ra một kỷ nguyên y học chính xác trong xạ trị cho trẻ em và trẻ vị thành niên mắc u nguyên bào tủy. Y học chính xác là phương pháp điều trị được điều chỉnh phù hợp với đặc điểm di truyền của bệnh ung thư trên một cá thể. Kết quả cũng đang thúc đẩy các thử nghiệm lâm sàng mới thử nghiệm các phương pháp điều trị tùy chỉnh cho các nhóm bệnh nhân có đặc điểm di truyền tương tự về bệnh ung thư.
Bức xạ điều trị u nguyên bào tủy
Khi một đứa trẻ được chẩn đoán mắc u nguyên bào tủy, ung thư sẽ được phân loại thành loại nguy cơ (nguy cơ thấp, trung bình hoặc cao) để phản ánh mức độ nguy hiểm và liệu nó có lan ra ngoài vị trí ban đầu trong não hay không. Trẻ em mắc u nguyên bào tủy có nguy cơ trung bình thường phải phẫu thuật để loại bỏ càng nhiều khối u càng tốt, sau đó là hóa trị cộng thêm vài tuần xạ trị. Điều đó dẫn tới bức xạ được đưa đến toàn bộ não và cột sống, cũng như “tăng cường” thêm cho tiểu não và thân não, nơi các khối u u trung thất bắt đầu phát triển. Đây là một phương pháp điều trị rất phức tạp và có cường độ cao.
Dựa trên kết quả từ các nghiên cứu trước đó, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm liều lượng thấp hơn và diện tích hoặc thể tích bức xạ nhỏ hơn. Họ muốn tìm hiểu “liệu hai điều đó – giảm liều lượng và khối lượng – có dẫn đến kết quả tốt hơn cho trẻ em không?”. Nghiên cứu có sự tham gia của 549 trẻ em mắc u nguyên bào tủy có nguy cơ trung bình, từ 3 đến 21 tuổi, ở sáu quốc gia. Trong nghiên cứu theo dõi kết quả của bệnh nhân trong thời gian trung bình là 9 năm, những người tham gia đã thực hiện một loạt bài kiểm tra thính giác và IQ. Vài năm sau khi thử nghiệm bắt đầu, các nghiên cứu cơ bản đã cung cấp “sự hiểu biết tốt hơn về sinh học của u nguyên bào tủy”, dẫn đến sự thay đổi trong cách chẩn đoán ung thư. Dựa trên sự hiểu biết mới này, các bác sĩ hiện phân loại u nguyên bào tủy thành một trong bốn loại phụ, tùy thuộc vào những thay đổi di truyền trong khối u của bệnh nhân. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đã quay lại và phân tích các đặc điểm di truyền của khối u của những người tham gia và xem xét kết quả nghiên cứu dưới lăng kính của bốn loại phụ đó.
Liều lượng bức xạ nhỏ hơn an toàn hơn
Tất cả những người tham gia thử nghiệm đều nhận được mức tăng bức xạ tiêu chuẩn đến đáy hộp sọ hoặc tăng cường cho một vùng não nhỏ hơn. Diện tích càng nhỏ thì mô càng ít khỏe mạnh sẽ bị ảnh hưởng bởi bức xạ. Điều đó có thể giúp tiết kiệm các vùng não liên quan đến thính giác, trí nhớ và điều hòa hormone. Trong số tất cả 464 người tham gia được đánh giá, 85% còn sống sau 5 năm. Và 81% sống được 5 năm mà không gặp phải biến cố nào liên quan đến ung thư.
Lập kế hoạch xạ trị u nguyên bào tủy ở trẻ em
Một bệnh nhân được coi là mắc bệnh liên quan đến ung thư nếu bệnh ung thư của họ trở nên nặng hơn hoặc tái phát, phát triển một loại ung thư khác (bệnh ung thư nguyên phát thứ hai) hoặc chết. Tỷ lệ tương tự ở trẻ em nhận được mức tăng tiêu chuẩn và mức tăng nhỏ hơn sống được 5 năm mà không gặp biến cố liên quan đến ung thư (81% so với 83%). Và tỷ lệ sống sót chung gần như giống nhau ở cả hai nhóm (85%). Ngoài ra, có một số bằng chứng cho thấy mức tăng nhỏ hơn sẽ bảo tồn khả năng học tập của bệnh nhân tốt hơn – được đo bằng điểm IQ. Tuy nhiên, mức tăng nhỏ hơn không làm giảm tỷ lệ mất thính giác. Mặc dù mức tăng nhỏ hơn đã điều trị hiệu quả cho những bệnh nhân mắc cả bốn loại u nguyên bào tủy, nhưng dường như nó còn có tác dụng tốt hơn đối với những bệnh nhân mắc loại phụ được gọi là Sonic Hedgehog (SHH). Gần 91% những người có phân nhóm SHH nhận được mức tăng nhỏ hơn đã sống trong 5 năm mà không gặp biến cố liên quan đến ung thư, so với 75% những người nhận được mức tăng tiêu chuẩn. Và không có bệnh nhân nào thuộc nhóm phụ SHH nhận được mức tăng nhỏ hơn phát triển bệnh ung thư nguyên phát thứ hai, trong khi bốn bệnh nhân nhận được mức tăng tiêu chuẩn thì có.
Bức xạ liều thấp kém hiệu quả hơn
Các nhà nghiên cứu cũng thử nghiệm liều phóng xạ thấp hơn tới toàn bộ não và cột sống ở những bệnh nhân nhỏ tuổi nhất, từ 3 đến 7 tuổi. Tổn thương não là mối lo ngại đặc biệt đối với trẻ dưới 7 tuổi, vì não của chúng đang phát triển tích cực ở một số khu vực quan trọng nhất định. Các nhà nghiên cứu nhận thấy, so với liều bức xạ tiêu chuẩn, liều thấp hơn gây ra sự sụt giảm điểm IQ ít hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, liều thấp hơn không tốt bằng liều tiêu chuẩn trong việc ngăn ngừa ung thư.
Nhiều trẻ em trong nhóm dùng liều thấp gặp biến cố liên quan đến ung thư trong 5 năm sau đó (29% so với 17%). Và ít trẻ em ở nhóm dùng liều thấp vẫn còn sống sau 5 năm so với những trẻ ở nhóm dùng liều chuẩn (78% so với 86%). Vì vậy, kết luận là sẽ không an toàn cho tất cả bệnh nhân trẻ tuổi mắc u nguyên bào tủy khi giảm liều phóng xạ lên não và cột sống. Tuy nhiên, kết quả khác nhau giữa các bệnh nhân với các phân nhóm u nguyên bào tủy cụ thể. Ví dụ, liều thấp hơn có hiệu quả tương đương với liều tiêu chuẩn đối với bệnh nhân mắc loại phụ WNT. Mặt khác, liều thấp hơn lại tệ hơn nhiều đối với những người thuộc nhóm 4. Trong số trẻ nhỏ thuộc nhóm 4, 23% ở nhóm dùng liều thấp gặp biến cố liên quan đến ung thư trong 5 năm sau đó, so với 3% ở nhóm dùng liều chuẩn. Một số nhà nghiên cứu hiện đang tiến hành các nghiên cứu tiếp theo về bức xạ liều thấp cho trẻ em mắc u nguyên bào tủy thuộc phân nhóm WNT. Nhóm Ung thư Trẻ em cũng đang tìm hiểu xem liệu các loại thuốc bảo vệ chống tổn thương thính giác có thể giúp trẻ em thoát khỏi một số tác dụng phụ muộn của các phương pháp điều trị u nguyên bào tủy tiêu chuẩn hay không.
Từ khóa: Xạ trị; rủi ro bức xạ; an toàn bức xạ; u nguyên bào tủy;
– CMD&DND –